Lịch sử Dãy núi Cascade

Khu định cư của thổ dân

Thổ dân châu Mỹ đã sống ở vùng Cascades trong hàng ngàn năm nay. Dấu vết định cư lâu đời nhất bắt đầu từ giai đoạn cuối cuộc băng hà lớn cuối cùng, 11.000 năm trước.[14]

Các bộ tộc chính của họ sống lan dần theo sườn của dãy núi từ Bắc vào Nam bao gồm Nooksacks, Nlaka'pamux, Okanagan, Wenatchi, Skagit, Duwamish, Kittitas, Puyallups, Yakamas, Klickitat, Cowlitz, Chinook, Molala, Warm Springs, Hunipui, Kalapuyas, Yahooskin, Klamaths, Takelma, Modocs, Shastas, Achomawi, Wintu, Atsugewi, Yanas, Maidu.[48]

Quang cảnh một cột totem tại Hope, nằm ở cực bắc Cascades.

Thổ dân châu Mỹ sử dụng Thuja plicata đóng làm xuồng và ván gỗ dùng để xây dựng nhà ở, và dùng làm củi.[49] Một trong những nguồn thực phẩm chính của họ là cá hồi, chúng được sấy khô vào mùa thu để ăn dần cho đến cuối mùa đông, điều này được thực hiện bằng cách định canh. Ngoài ra, họ cũng sử dụng cá trong các nghi lễ. Họ có thể đã canh tác nhưng điều này là rất hiếm. Đơn vị xã hội cơ bản của họ là một ngôi nhà mở, ở đó họ phân phối công bằng thành quả sản xuất trong việc chia sẻ mọi thứ. Phân phối dựa trên công việc đã chia theo độ tuổi, thứ hạng xã hội nhưng đặc biệt là giới tính: phụ nữ đan giỏ và chiếu, thu thập quả mọng, làm quần áo và làm sạch, trong khi đàn ông tập trung vào săn bắn và câu cá. Họ được giúp đỡ trong công việc bởi những nô lệ có được sau các cuộc chiến tranh hoặc qua buôn bán. Ở sườn phía tây của dãy núi, thổ dân sống trong một nơi trú ẩn bằng gỗ hình trứng dài có kích thước rộng từ sáu mét, dài mười lăm mét (loại nhỏ nhất) và rộng hai mươi mét, dài năm mươi mét (loại lớn nhất), dành cho việc nấu nướng và gia đình họ ở. Một số nơi trú ẩn được trang trí phong phú với các bức tranh và tác phẩm điêu khắc, và vài nơi được dành cho các nghi lễ. Trong trường hợp chết, nơi trú ẩn bị đốt cháy vì sợ tinh thần của người chết ám ảnh các thành viên khác trong gia đình. Những chiếc xuồng, đôi khi đóng dài mười lăm mét và được chất đầy, có thể chứa tới hai mươi chiến binh hoặc năm tấn cá. Những ngọn núi, những tảng đá, những cái cây, những con vật là đối tượng thờ cúng tâm linh của người thổ dân. Các cột tô tem giáo được làm bằng gỗ và trang trí bằng vỏ sò được tìm thấy trên bờ biển, đại diện cho đàn ông và động vật. Chúng xuất hiện kiểu cột mới cùng với sự xuất hiện của những người châu Âu định cư đầu tiên và sử dụng các công cụ bằng sắt; về sau chúng trở thành biểu tượng của mỗi bộ lạc và sự phản ánh văn hóa của họ.[50]

Hai khu giành riêng lớn của thổ dân đã được thành lập ở sườn phía đông của Cascades vào năm 1855:[51] đó là Warm Springs ở Oregon (2.640 km2)[52] và Yakama ở bang Washington (5.662 km2).[53]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Dãy núi Cascade http://archive.ilmb.gov.bc.ca/bcgn-bin/bcg10?name=... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/97772 http://www.chelanvalley.com/holden_discovery.htm http://geology.com/records/deepest-lake.shtml http://www.goingoutside.com/lakeranges/5_Northern_... http://www.onscenicroutes.com/cascademain.html http://www.peakbagger.com/range.aspx?rid=125 http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://www.nichols.edu/departments/glacier/intro.h... http://www.lib.utexas.edu/maps/united_states/early...